Phật giáo không phải mê tín, mà là khoa học vĩ đại
Bài viết của Giáo sư Dương Chấn Ninh đăng trong nguyệt san Giác Ngộ, bản dịch Thích Bổn Huân.
---
Phật giáo là một tôn giáo nhưng lại mang tính khoa học và hợp lý rất cao. Nó phù hợp với tinh thần khoa học hiện đại. Khoa học là tổng hợp lý thuyết và thực hành. Lý thuyết và thực hành khoa học ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau.
Nguyệt san Giác Ngộ
----
Giáo sư Dương Chấn Ninh là một người Mỹ gốc Hoa. Ông là một nhà vật lý học xuất sắc và được trao giải Nobel vật lý vào năm 1957. Ông cũng là người rất quan tâm đến Phật giáo.
Thích Bổn Huân - Tiến sĩ văn học, giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM
---
Phật giáo là một tôn giáo nhưng lại mang tính khoa học và hợp lý rất cao. Nó phù hợp với tinh thần khoa học hiện đại. Khoa học là tổng hợp lý thuyết và thực hành. Lý thuyết và thực hành khoa học ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau.
Nguyệt san Giác Ngộ
----
Con người đã đạt được những khám phá mới trong sự thực hành khoa học. Khi những khám phá mới này không thể được giải thích bởi các lý thuyết khoa học ban đầu, người ta lại tiếp tục đưa ra những giả thuyết khác nhằm thỏa mãn những vấn đề đã được khám phá đó.
Một giả thuyết được chấp nhận rộng rãi thường phải hội đủ ba điều kiện:
Thứ nhất, hệ thống lý thuyết của nó phải nhất quán, nghĩa là nó phải tự giải thích và không tự mâu thuẫn.
Thứ hai, nó phải có khả năng mô tả chính xác những phát hiện đã có, đó là giả thuyết có thể tự hoàn thiện và phù hợp với các thực nghiệm khoa học hiện có.
Thứ ba, theo giả thuyết này, một số suy luận và dự ngôn có thể được rút ra, và những dự đoán này có thể được xác minh bằng các thí nghiệm và quan sát trong tương lai. Khi ngày càng có nhiều suy luận và dự đoán được đưa ra, giả thuyết khoa học này được các nhà khoa học chấp nhận rộng rãi, và giả thuyết khoa học này được gọi là lý thuyết khoa học.
Nếu lý thuyết mô tả này giải thích và hướng dẫn đối tượng thuộc diện rộng và quan trọng, thì lý thuyết này được gọi là lý thuyết khoa học vĩ đại, như cơ học Newton, thuyết tương đối của Einstein. Cơ học Newton áp dụng cho tất cả các vật thể vĩ mô, quy luật tuân thủ khi không tiếp cận với sự vận động của tốc độ ánh sáng. Thuyết tương đối có thể mô tả vận tốc thấp của tất cả các vật thể vĩ mô ở tốc độ ánh sáng tương đối, và quy luật tiếp cận khi chuyển động tốc độ cao của ánh sáng.
Khi hai lý thuyết này được đề xuất, người ta có thể giải thích những vấn đề mà trước đây mọi người không thể giải quyết với các lý thuyết khoa học đã cũ, và những suy luận cùng tiên đoán dựa trên chúng, về sau được chứng thực bởi nhiều sự quan sát của các nhà khoa học. Thuyết tương đối là một khái quát về cơ học Newton, và cơ học Newton là một trường hợp đặc biệt ở tốc độ thấp của thuyết tương đối.
Bởi vì mặt thích ứng của hai lý thuyết này vô cùng rộng lớn, cho nên Newton và Einstein được thế giới công nhận là các nhà khoa học vĩ đại nhất. Lý thuyết của họ là lý thuyết khoa học vĩ đại nhất. Phóng vệ tinh lên trời, chạy tàu ngầm dưới biển, thi đấu thể thao, quan sát thiên văn… đều phải tuân theo những chế ước của quy luật mà lý thuyết này đã mô tả.
Tương tự như vậy, Phật giáo cũng có đầy đủ ba đặc điểm của lý thuyết khoa học. Trước hết, lý thuyết Phật giáo là tự nhất quán và hài hòa. Tứ Thánh đế tóm tắt hiện tượng nhiều đau khổ trong cuộc sống nhân sinh, chỉ ra nguyên nhân gây đau khổ, và đưa ra cơ sở lý thuyết cùng với phương pháp tu tập để điều phục thân tâm.
Thứ hai, sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài đã đề xướng những đạo lý cơ bản của vũ trụ và nhân sinh, giải thích nhiều hiện tượng xã hội và nhân sinh, và quan trọng hơn là nhiều người lắng nghe lời dạy của Đức Phật để tu tập, và có rất nhiều người đã trải nghiệm nhiều cảnh giới khác nhau như Phật học đã chỉ ra. Cho nên Phật giáo đã dành được sự ủng hộ của nhiều người và đã có sự ảnh hưởng rất rộng lớn.
Điều tôi muốn nhấn mạnh là tính thực nghiệm của Phật giáo. Tuân theo sự hướng dẫn của Đức Phật, những người tu tập thực hành theo giới luật, có thể ít hay nhiều chứng thực và khẳng định lời của Đức Phật đều là chân thật. Phật học không phải là triết học thuần túy về lý thuyết, mà là một môn khoa học thực nghiệm có tính thực tiễn rất mạnh, mặc dù nó còn bao hàm những triết lý vĩ đại. Dựa theo Phật học để thực hiện việc tu hành tức là học Phật.
Thứ ba, một số hiện tượng tự nhiên được mô tả bởi Phật giáo, là sự quan sát thực tế cho những người đã đạt được các kỹ năng tâm linh tương ứng, nhưng đối với những người bình thường, họ chỉ có thể tin điều đó, nhưng quan sát dưới góc độ khoa học tự nhiên ngày nay, đó chính là lời dự đoán khoa học của những người vĩ đại. Đức Phật đã nói hơn 2.500 năm về trước rằng, có 84.000 con vi trùng trong một bát nước, và có ba nghìn đại thiên thế giới trong cấu trúc của vũ trụ, được các nhà vi sinh học và thiên văn học của khoa học hiện đại ngày nay xác nhận là hoàn toàn có cơ sở khoa học.
Một số người bây giờ do không hiểu biết một cách đầy đủ về Phật giáo nên cáo buộc Phật giáo là mê tín dị đoan và không khoa học. Trên thực tế, một số ít những người này lại không hiểu biết đủ về khoa học. Họ có thái độ mê tín khoa học và thiếu tinh thần khoa học chân chính. Sáu nẻo luân hồi và nhân quả báo ứng của Phật giáo thường bị người ta công kích, cho rằng đó là những điều mê tín. Một trong những lý lẽ của những người này là khi ai đó đã làm điều ác mà không có quả báo xấu xuất hiện. Có người đã từng làm việc tốt nhưng không thấy nhận được quả báo lành. Thực ra những người này không hiểu được rằng khi nghiệp lực trong sáu nẻo luân hồi chín muồi, thì mới nhận được quả báo. Lập luận thứ hai là tại sao không ai có thể nhìn thấy quả báo luân hồi.
Sự thật là từ khi Phật giáo ra đời đến nay đã hơn 2.500 năm, nơi lịch sử và kinh điển Phật giáo đã ghi chép lại nhiều người tu đạo đã chứng được thần thông và có thể thấy được sự vận hành của nhân quả luân hồi. Trong cuộc sống chúng ta có rất nhiều những thứ vô hình mắt thường không thể thấy được, nhưng chúng ta không thấy không có nghĩa là nó không tồn tại.
Đôi mắt của chúng ta không thể cảm nhận được tia hồng ngoại hoặc tia tử ngoại; tai chúng ta không thể nghe được sóng siêu âm và sóng siêu thanh; mắt chúng ta không thể nhìn thấy vi khuẩn, không thể thấy các hạt vi mô như nguyên tử. Chúng ta không thể nhìn thấy và nghe thấy rất nhiều tín hiệu điện từ khắp nơi chung quanh mình, chẳng hạn như sóng radio, sóng truyền hình, tín hiệu điện thoại di động… Và còn có rất nhiều thứ khác mà khoa học vẫn chưa thể khám phá ra nhưng nó vẫn tồn tại trong vũ trụ bao la.
Chúng ta có thể nhìn thấy ánh mặt trời, nhưng chúng ta không thể biết rằng ánh sáng này có bước sóng hạt lưỡng tính. Nhưng chúng ta tin sâu không nghi ngờ những điều nêu trên như tin khoa học thường thức, bởi vì khoa học tự nhiên ngày nay được phổ biến rộng rãi. Tinh thần khoa học thực nghiệm nó nằm ở khoa học, và không vì bạn đã tin mà bạn xem nhẹ việc kiểm nghiệm, và cũng không phải vì bạn không đi quan sát trắc nghiệm mà nó không tồn tại và trở thành mê tín.
Nếu ta muốn hiểu sâu hơn về các định luật khoa học và hiện tượng khoa học mà các giác quan của chúng ta không thể cảm nhận và nhìn thấy, chúng ta phải nghiêm túc học hỏi và nghiên cứu với các bậc thiện tri thức trong lĩnh vực khoa học. Khi học từ tiểu học đến khi tốt nghiệp tiến sĩ, bạn sẽ dần dần tìm hiểu thêm về các lý thuyết khoa học, thực hiện và quán sát nhiều thí nghiệm khoa học hơn, và đồng thời sử dụng các công cụ nghiên cứu khoa học để biết rõ hơn về nhiều hiện tượng khoa học.
Nếu như một người không được học về nghiên cứu khoa học, cũng không hiểu nhiều về các hiện tượng khoa học với những quy luật tự nhiên, lại đi chỉ trích và cáo buộc những hiện tượng khoa học với các quy luật ấy là mê tín, đây quả thật là rất buồn cười. Cũng như những chân lý đã được Phật giáo giới thiệu, không phải vì bạn không được học Phật pháp, không trải nghiệm việc tu hành thì bạn có thể chỉ trích nó là mê tín được.
Phật giáo là trí tín chứ không mê tín, và là đức tin của những người có trí tuệ. Những nhân vật lịch sử ở Ấn Độ và Trung Quốc qua nhiều thế hệ đã chứng minh điều này. Khoa học chính là sự vận dụng trí tuệ của con người, mà Phật học chính là giúp cho con người đoạn trừ vọng niệm để hiển hiện đầy đủ trí tuệ của chúng sinh, vì vậy khoa học và Phật học không hề mâu thuẫn nhau dù chỉ là một ít.
Tính khoa học của Phật giáo - Một sự hiểu biết đúng đắn về Phật giáo bắt đầu từ đây.
Có nhiều luận thuật trong kinh sách Phật giáo phù hợp với khoa học hiện đại đến kinh ngạc. To lớn là nói đến sự hình thành vũ trụ, cấu tạo của hệ mặt trời và dải ngân hà… Nhỏ là quan sát đến sự sống của ký sinh trùng và vi sinh vật. Ngay cả những khoa học tiên tiến như thuyết tương đối và cơ học lượng tử… cũng xác chứng tính chân thật của Phật giáo. Dưới đây là một vài ví dụ.
Ba nghìn đại thiên thế giới với vũ trụ
Đức Phật đã mô tả chính xác về trạng thái vũ trụ của chúng ta trong kinh Khởi thế (起世经). Nguyên bản gốc là thể văn cổ xưa, nếu mọi người có hứng thú thì nên tìm đọc.
Ví dụ như nói đến "Tiểu thiên thế giới" thì giống như một tấm lưới châu giăng ra theo hình cái mâm để ngửa lên vậy, tức là nó không chỉ có hình tròn mà còn có xoắn ốc bên trong, đó chính là hình dạng của dải ngân hà. Ngoài ra còn chỉ ra rằng trong dải ngân hà có rất nhiều tinh cầu có con người đang sống. Không gian ba chiều đối ứng với ba nghìn đại thiên thế giới chính là toàn bộ bầu trời vũ trụ đầy sao mà chúng ta hiện đang quan sát.
Nơi ba ngàn đại thiên thế giới này có vô số thế giới. Có thể nói là vũ trụ mà con người đã quan sát được cho đến nay vẫn chưa vượt qua những gì trong kinh Phật gọi là "ba ngàn đại thiên thế giới".
Kinh Khởi thế cũng đề cập rằng trong tiểu thiên thế giới của chúng ta (tức dải ngân hà) có bốn châu lớn đó là Diêm-phù-đề (阎浮提), Cù-đà-ni (瞿陀尼), Phất-bà-đề (弗婆提) và Uất-đan-việt (郁单越). Trái đất của chúng ta thuộc về một châu trong bốn châu lớn đó là Diêm-phù-đề. Ba châu lớn khác là nói đến các loại người ngoài hành tinh, các loại hành tinh trong dải ngân hà. Đức Phật đã mô tả họ một cách chi tiết, bao gồm hình dạng khuôn mặt, tuổi thọ và điều kiện sống... Ngoài bốn châu lớn ra còn có ‘80.000 châu nhỏ’. Các loại hành tinh nhỏ này vẫn chưa được tiến hóa lên như những hành tinh cao cấp.
Trong tập hai của Du-già Sư địa luận ghi: “Trong thế gian này, 20 trung kiếp thành, 20 trung kiếp trụ, 20 trung kiếp hoại, 20 trung kiếp không.” Theo một số văn bản luận thuật của Phật giáo, một tiểu kiếp là 1.680.000 năm. Mỗi 20 tiểu kiếp là một trung kiếp, tức là 33.600.000 năm. 80 trung kiếp là một đại kiếp, tức là 2.688.000.000 năm. Đây chính là một vụ nổ lớn để tạo nên thọ mệnh của vũ trụ. Tuổi của vũ trụ chúng ta hiện nay được đoán định là 13.700.000 năm, có nghĩa là vũ trụ của chúng ta bây giờ đang ở tuổi trung niên.
Chúng ta thử tính toán xem, thời gian của vũ trụ trong giai đoạn “thành” và “trụ” là 67.200.000.000 năm, trong lúc vũ trụ hình thành và đang trụ thì thái dương hệ (tức hệ mặt trời) đã hình thành được 4.600.000.000 năm. Ước tính khoảng hơn một tỷ năm sau khi hình thành thì hành tinh của chúng ta đã xuất hiện những sự sống đơn giản nhất, và lúc ấy hệ mặt trời có tuổi thọ là 4.700.000.000 năm. Và hàng trăm tỷ năm về sau, quả địa cầu này sẽ không còn đủ điều kiện thích hợp cho sự sống nữa.
Luận về hình dạng của trái đất
Theo kinh Lăng nghiêm, đệ tử của Đức Phật tên là A Na Luật Đà bị mù mắt, nhưng lại tu chứng được quả A-la-hán. Sau khi mở được thiên nhãn thì ngài nhìn thấy cõi Diêm-phù-đề (trái đất) giống như trái Am-ma-la trong lòng bàn tay (một loại trái cây có hình bầu dục tại Ấn Độ). Nếu không thật sự tu hành chứng quả thì cách nay hơn 2.500 năm, làm thế nào có thể biết rằng trái đất có hình tròn? Câu-xá luận mô tả vòng đất dựa theo vòng nước, vòng nước lại dựa theo vòng gió, vòng gió lại theo vòng không gian. Ở đây biểu thị địa cầu là hình tròn, trên bề mặt địa cầu đa phần là nước, phía ngoài nước là tầng khí quyển, ngoài lớp khí quyển là không gian. Chỉ ra một cách chính xác nguyên nhân khi tròn khi khuyết, khi mờ khi tỏ của mặt trăng. Trong kinh Khởi thế, Đức Phật đã chỉ ra chính xác nguyên nhân lý do mặt trăng khi mờ khi tỏ, khi tròn khi khuyết (vào ngày 30 âm lịch thì mặt trăng tối nhất, gần nhất với nhật cung, được bao phủ bởi ánh mặt trời nên không hiện).
Luận về vi sinh vật
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng chỉ một cốc nước và nói rằng trong cốc nước này có đến 84.000 chúng sinhsống trong ấy (Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng). Thật ra 84.000 là con số tượng trưng, ý nói là một con số rất lớn. Đó là không dùng kính hiển vi mà có thể thấy vô số vi sinh vật trong nước. Với lý do đó, Đức Phật đã quy định rằng các đệ tử trước khi uống nước cần phải nên lọc nước để có thể giảm thiểu việc làm hại các vi sinh vật (nếu quá nhỏ thì không có cách nào khác).
Luận về ký sinh trùng
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói thân người là ổ vi trùng. Ngài còn xác định và chỉ ra vị trí và trạng thái hoạt động. Ngày nay nhờ khoa học phát triển đã phát hiện được ký sinh trùng trong cơ thể người có hơn 10 loại như: giun đũa, giun kim, giun móc, giun chỉ, sán dây, vi trùng phổi, sán lá, vi trùng gan… (Tham khảo Đài thiền bệnh mật yếu và Chánh pháp niệm sở kinh). Có thể sẽ có người hỏi là hơn 2.500 năm trước, không có bất cứ dụng cụ khoa học hiện đại nào, làm sao có thể hiểu rõ được như vậy về vĩ mô như vũ trụ và vi mô như các loại ký sinh trùng? Trên thực tế thì tất cả đều ở trong thức tâm. Con người có thể thông qua sự tu hành thâm sâu, đến khi giác ngộ thì có thể nhận biết được tất cả vũ trụ. Chúng ta hoàn toàn có lý do để tin, tức là bắt đầu từ bây giờ cho đến khi trải qua 5 tỷ năm nghiên cứu khoa học, những gì chúng ta hiểu biết về bản chất của vũ trụ cũng không thể sánh kịp với hiểu biết của Đức Phật… Kinh Lăng-nghiêm chỉ ra: “Tất cả nhân quả thế giới vi trần, do tâm mà hình thành nên”. Một ví dụ khác là lý thuyết ba chiều về vũ trụ đã xuất hiện trong những năm gần đây, và kinh Lăng-nghiêm xác chứng điều này: “Trên đầu một sợi lông có thể chứa đựng mười phương quốc độ”. Loại ví dụ này quả thật là không thể nào bàn đến chỗ cùng tận được. Lý thuyết Phật học đã có hơn 2.500 năm, nhưng khoảng gần 100 năm trở lại đây mới được khoa học hiện đại khám phá và đồng loạt nghiệm chứng.
Dương Chấn Ninh
- Thích Bổn Huân dịch
- Thích Bổn Huân dịch
__________
Comments